September 23, 2012

Hoàng Hạc Lâu (thơ Thôi Hiệu)



Lầu Hoàng Hạc, ảnh chụp những năm 1920

Chữ Hán
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Hán-Việt
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân[1] dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ[2]châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa
Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!

Dịch thơ 

Bản dịch của Trí Trai
Người xưa cưỡi hạc bay đi đâu
Nơi đây còn lại Hoàng Hạc lầu
Hạc vàng một đi không trở lại
Mây trắng ngàn năm bay về đâu.
Hán Dương sông lặng cây soi bóng
Anh Vũ bãi xa cỏ xanh màu
Quê nhà đâu nhỉ chiều buông xuống? 
Khói sóng trên sông gợn nỗi sầu.
[Trí Trai 2012]

Bản dịch của Tản Đà
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Người xưa cưỡi hạc đã cao bay
Lầu hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dầy
Hoàng hôn về đó quê đâu tá?
Khói sóng trên sông não dạ người.
(nguồn Wikipedia)
 
(Thủ bút Vũ Hoàng CHương)

No comments: