PGS. TS. Nguyễn Văn Hiệp
Thành viên BCH Tổng hội xây dựng Việt
Nam
Ngày 06/2/2013, Chính phủ đã ban
hành Nghị định 15/2013/NĐ-CP về quản lý chất lượng công trình xây dựng (QCCL),
thay thế Nghị định 209/2004/NĐ-CP, Nghị định 49/2008/NĐ-CP và sẽ có hiệu lực từ
15/4/2013. So với các quy định của hai Nghị định cũ, đã có những thay đổi quan
trọng tại nhiều nội dung (khác hẳn với những dự thảo ban đầu đã được triển
khai, lấy ý kiến) và đang gây ra những thắc mắc, tồn tại, kéo dài thời gian thực
hiện thiết kế của chủ đầu tư và những đối tượng tham gia hoạt động đầu tư – xây
dựng (ĐT-XD) mà cả ở các đơn vị quản lý nhà nước (QLNN) sẽ tiến hành thực hiện.
Một lần nữa, các chính sách pháp luật riêng trong QLNN về QLCL lại có những
thay đổi mà bản thân các đơn vị QLNN khi triển khai thực hiện cũng đang lúng
túng. Quy định một phần đã trở lại những quy định cũ, thay cho cơ quan QLNN thẩm
định và phê duyệt, bằng thủ tục thẩm tra trước kia đã bị “phàn nàn” nhiều, đã được
xã hội hóa đến hôm nay, đơn vị QLNN gánh trở lại, trong khi trách nhiệm lại
không rõ ràng và tính khả thi khi triển khai chưa cao. Xin được nêu cụ thể:
1-
Điều 21. Thẩm tra thiết kế của các cơ quan QLNN về xây dựng:
Các đơn vị QLNN nay sẽ giữ vai thẩm
tra thiết kế cho tất cả những dự án thuộc mọi nguồn vốn (!), rồi sau khi thẩm
tra xong, Chủ đầu tư sẽ thẩm định và phê duyệt thiết kế. Ở đây, đã có sự “thay đổi
nghịch” về định nghĩa công tác thẩm tra – trước đây quy định là việc của xã hội
nghề nghiệp, được xã hội hóa, do những tư vấn đủ năng lực hành nghệ thực hiện,
nay quy định lại là việc của các cơ quan QLNN (Bộ, Sở) tiến hành ! Nếu đủ năng
lực, cơ quan QLNN sẽ tự thực hiện và ngược lại, sẽ chủ động thuê đơn vị tư vấn để
tiến hành công việc. Hàng loạt những nội dung phức tạp sẽ diễn ra, mà dự thảo
các Thông tư hướng dẫn đã được Bộ Xây dựng phổ biến, chưa xét cặn kẽ, đầy đủ, dẫn
đến khi triển khai chắc chắn sẽ gặp khó khăn:
a/ Gần đây, khá nhiều chính sách khi
ban hành, có thay đổi đều đột ngột, có phần chủ quan, chưa điều tra kỹ vì xã hội
học, chưa chuẩn bị sẳn, đầy đủ nguồn nhân lực để đáp ứng; không tính hết đến khả
năng dung nạp, không có thời gian quá độ – sự bất cập khi triển khai đã thấy trước.
Các cơ quan QLNN, từ 2004 đến nay, đã
không còn thực hiện nhiệm vụ này. Nay nếu được giao thực hiện (một phần để tăng
thu nhập cho đơn vị) các chuyên viên hiện có của từng đơn vị chắc chắn không đủ
năng lực, kinh nghiệm (kể cả ở Bộ Xây dựng và các Bộ chuyên ngành khác). Sẽ diễn
ra tình trạng tuyển dụng thêm biên chế công chức nhiều chuyên ngành (kết cấu, điện,
cơ, kinh tế xây dựng…) khác nhau cho cả các Bộ và nhiều cơ quan; tương tự ở Tỉnh,
thành phố cả nước - vì một thiết kế mất an toàn sẽ có thể xuất hiện từ những yếu
tố khác nhau. Bộ máy công chức hành chánh nhà nước lại tăng; thủ tục hành chánh
lại thay đổi cơ bản khi vừa đơn giản xong.
b/ Khi cơ quan QLNN đủ năng lực, thực
hiện thẩm tra, sẽ thu chi phí theo quy định ? Cơ quan này sẽ phải ký hợp đồng
thẩm tra với chủ đầu tư, như vậy cơ quan phải có đăng ký kinh doanh ? Điều này
không phù hợp với một đơn vị QLNN – đơn vị sự nghiệp công, gồm những công chức
hành chánh nhà nước, như hiện hành. Rồi nếu đã có thu chi phí, phải đóng thuế
thu nhập, thuế VAT, thuế lợi tức hình thành… như một doanh nghiệp là những vấn đề
gây lúng túng cho các đơn vị QLNN.
c/ Nếu cơ quan QLNN được giao nhiệm
vụ thẩm tra này không đủ năng lực, sẽ đa phần là như vậy: Nghị định 15/2013/NĐ-CP
quy định đơn vị được phép chỉ định (thuê) tư vấn khác để thực hiện. Điều này
khi triển khai sẽ xuất hiện những hệ lụy:
- Việc quy định của một văn bản pháp quy như thế
là không ổn, vì cơ quan QLNN được giao nhiệm vụ thẩm tra, lại đi “nhờ” thẩm tra
từ đơn vị khác, để có kết luận: Quy định này dễ sinh ra những ý tưởng tiêu cực
về hiệu quả QLNN.
- Nhưng nếu chuyển sang việc cơ quan QLNN tiến
hành thẩm định – như đã có đề xuất – rồi cơ quan QLNN có thể thuê tư vấn bên
ngoài thẩm tra thì nội dung này lại vi phạm quy định của Luật Xây dựng (Điều
57) và Luật Sửa đổi bổ sung các luật về đầu tư xây dựng cơ bản !
- Luôn luôn chỉ định đơn vị tư vấn thẩm
tra, hay lại phải đấu thầu (khi công tác thẩm tra có chi phí lớn hơn giới hạn
quy định để được chỉ định thầu theo Luật Đấu thầu). Lúc đó, đơn vị nào tổ chức đấu
thầu ? Kết quả đấu thầu đơn vị nào duyệt, để chủ đầu tư (hay đơn vị QLNN đó) ký
hợp đồng để triển khai thẩm tra ?
- Phần trăm mà tư vấn thẩm tra được cơ
quan QLNN chỉ định (hay trúng thầu) phải nộp lại cho đơn vị QLNN, sẽ là nguồn
thu nào (của QLNN), nguồn chi nào (của tư vấn) theo những quy định hiện hành, để
hạch toán sổ sách với cơ quan thuế ? Tỉ lệ nộp là không đổi hay thay đổi theo từng
loại công trình… Sự phức tạp chắc chắn sẽ xuất hiện những bất cập, thậm chí
tiêu cực, như đã có, đã thấy trước.
- Nếu tư vấn thẩm tra được chỉ định thầu,
sẽ tạo điều kiện để “nhóm lợi ích” xuất
hiện, không loại trừ là “sân sau” của các đơn vị, điều mà chủ trương, chính
sách hiện nay đang ngăn chặn.
- Đối với những công trình quan trọng,
có kỹ thuật phức tạp, công nghệ mới…, những tư vấn chuyên nghiệp, thậm chí tư vấn
nước ngoài mới đủ năng lực thẩm tra. Việc tìm tư vấn phù hợp, do phía nào đề xuất
? Cần để xã hội tham gia trọn vẹn công việc thẩm tra, vì đây là loại hình dịch
vụ tư vấn, được pháp luật quy định, thay vì QLNN chủ động.
- Đối với dự án sử dụng vốn ngân sách,
QLNN lại tham gia thẩm tra dự toán. Theo quy định hiện hành (Nghị định
112/2009/NĐ-CP), chủ đầu tư được phép thuê tư vấn để lập định mức, đơn giá, suất
đầu tư, chỉ số giá xây dựng và nhiều tiêu chí khác. Thuê xong, nhiều trường hợp
chủ đầu tư phải thuê tiếp tư vấn độc lập để thẩm tra. Sau đó, hồ sơ thiết kế (kèm dự toán) lại chuyển đến cơ quan
QLNN… thẩm tra tiếp (lần hai). Chi phí thực hiện ra sao ? Có cần hay không để
phải tăng thủ tục hành chánh ?
- Tư vấn thẩm tra (do QLNN thực hiện
hay chỉ định đơn vị thực hiện), nếu xảy ra sai phạm, xử lý ra sao ? Không có gì
đảm bảo cơ quan QLNN thẩm tra hay tổ chức thẩm tra sẽ tuyệt đối an toàn, kinh tế.
Đặc biệt khi quy định hiện hành của Bộ Xây dựng, các đơn vị tư vấn được phép
không mua bảo hiểm về trách nhiệm nghề nghiệp tư vấn.
- Việc Bộ Xây dựng (và các Bộ chuyên
ngành) tập trung thực hiện thẩm tra hay tổ chức thẩm tra các công trình cấp I,
cấp đặc biệt cũng sẽ xuất hiện sự quá tải ngay tại Bộ và các đơn vị thẩm tra
thuộc Bộ. Quy định này khiến cho các tư vấn địa phương khó có cơ hội phát triển
nghề nghiệp của mình tại các địa phương, vì kinh nghiệm nghề nghiệp không chỉ
là thiết kế, thi công, giám sát và quản lý dự án.
- Nếu các cơ quan QLNN tự thực hiện thẩm
tra (giả định có đủ năng lực), cá nhân các công chức hành chánh nhà nước ấy
không cần có chứng chỉ hành nghề, trong khi bắt buộc những người hành nghề thẩm
tra của các đơn vị tư vấn phải có ? Để có cơ sở, sẽ phải quy định cấp chứng chỉ
hành nghề đại trà cho các công chức hành chánh: Tự cấp chứng chỉ hành nghề cho
mình !
- Quy định hiện hành, một công trình vốn
tư nhân, khi muốn xin phép xây dựng, phải có thiết kế kết cấu được thẩm tra
(Nghị định 64/2012/NĐ-CP). Rồi sau khi có giấy phép, để triển khai chính thức,
cơ quan QLNN lại thẩm tra lần nữa ? Hay cơ quan QLNN sẽ thẩm tra trước khi công
trình được cấp giấy phép xây dựng ? Nếu khi cấp giấy phép, công trình phải chỉnh
sửa thiết kế, có thẩm tra lại không ? Sự chồng chéo quy định trong những văn bản
pháp quy rất cần được làm rõ. Bản thân cũng không đồng ý với quy định hiện hành
là trước khi được cấp giấy phép xây dựng, công trình phải có thiết kế được thẩm
tra vì sẽ dễ thay đổi thiết kế sau cấp phép, tốn thêm chi phí. Các kiến nghị về
sau sẽ nêu đề xuất về nội dung này.
d/ Hồ sơ thiết kế sẽ thẩm tra xong, trong quá trình
thi công dễ có những thay đổi thiết kế. Quy mô đến mức nào sẽ phải gởi hồ sơ để thẩm tra lại. Thời gian thẩm tra lại mất
bao lâu (như thẩm tra từ đầu thì quá lâu). Công trình lúc đó phải dùng thi công
để chờ ? Đối với công trình xây dựng, việc thay đổi nội dung thiết kế trong quá
trình thi công là rất thường xảy ra, cần có những quy định tạo điều kiện để
công trình dễ thay đổi (tốt hơn), thuận lợi cho chủ đầu tư, hơn là quá cứng, dễ
gây khó khăn, phát sinh tiêu cực.
Cũng xin được lưu ý là điều 22, mục
2 Nghị định 15/2013/NĐ-CP khi đọc có thể hiểu cả 2 nghĩa (nghĩa khác là mọi trường
hợp điều chỉnh thiết kế đều phải thẩm tra lại).
e/ Hiện nay, ở những văn bản pháp
quy khác, Chính phủ đã cho phép các Ban quản lý Khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu đô thị mới, khu kinh tế, khu công nghệ cao …. được tham gia vai trò QLNN.
Giả sử khi chín muồi, đủ điều kiện, việc thẩm tra các thiết kế vẫn được giao
cho các cơ quan QLNN như Nghị định 15/2013/NĐ-CP, thì khi đó, các Ban trên
không còn thực hiện phần việc được giao, mà thay vào đó là việc của các Bộ và Sở.
Chắc chắn lại xảy ra thắt nút cổ chai trong nền kinh tế phát triển, ngành xây dựng
phát triển, nhiều công trình xây dựng được đầu tư.
Tương tự, quy định hiện hành, các cơ
quan QLNN cấp Quận, huyện cũng được giao chức năng quản lý, đối với nguồn vốn địa
phương, dự án cấp III, vốn ngân sách. Nội dung ủy quyền cho địa phương này, Nghị
định 15/2013/NĐ-CP không quy định, việc thắt nút cổ chai lại xảy ra tiếp, vì có
rất nhiều dự án quy mô cấp III, vốn ngân sách.
2- Phát sinh thêm một thủ tục mới là lập
chỉ dẫn kỹ thuật (Điều 3, 5 – Nghị định 15/2013/NĐ-CP) mà nội dung này (theo
thông lệ quốc tế là cần thiết) cần được hướng dẫn chi tiết. Chắc chắn thời hiệu
15/4/2013 áp dụng là không khả thi, vì không ban hành kịp thời. Tuy nhiên, cần
quy định các công trình đã quá phổ biến – kể cả chung cư công trình lập BCKTKT,
hay cấp IV, là không cần lập, vì rất hình thức.
3/ Việc kiểm tra thủ tục hoàn thành
công trình của các đơn vị QLNN (cấp Bộ, Sở), thay thế cho dịch vụ cấp giấy chứng
nhận sự phù hợp về CLCT xây dựng, là cần thiết, nhưng cần phải thay thế nó bằng
quy trình kiểm tra thường xuyên, có kế hoạch (cho từng dự án khi đã duyệt hay cấp
GPXD); cũng không chỉ là kiểm tra xây dựng đúng giấy phép, đúng dự án duyệt
không, như hiện nay, thông qua lực lượng thanh tra xây dựng, chồng chéo mà
không hiệu quả trong QLCL.
Ở một số nước (cả Hoa Kỳ); QLNN phải
thực hiện kiểm tra, lập biên bản khi:
- Kiểm tra các thủ tục, năng lực các đơn
vị tham gia dự án lớn.
- Kiểm tra khi thi công chuyển giai đoạn
(xong phần móng, xong phần thân, xong phần hoàn thiện, xong phần đấu nối…), kể
cả nhà dân.
Và đơn vị và cá nhân khi kiểm tra phải
đến kịp thời, phải chịu trách nhiệm, có chế tài rõ ràng chặt chẽ và nghiêm khắc.
Nội dung kiểm tra do vậy cần được nghiên cứu để ban hành đầy đủ, khoa học,
không chỉ thông qua thẩm tra (khi chưa thi công) và kiểm tra hồ sơ nghiệm thu
(khi thi công xong), như đã quy định.
4-
Nhiều sự cố công trình đã xảy ra
trong thời gian qua, xuất phát do địa điểm xây dựng chọn sai (thủy điện sông
Tranh 2), biện pháp thi công, chất lượng thi công và quản lý an toàn sai
(Pacific, M&C Tower, Lim Tower, hầm Thủ Thiêm… ở TP.HCM), không thuộc trách
nhiệm tư vấn thẩm tra khi xảy ra. Ngược lại, ở một số dự án hiện nay, đặc biệt ở
những dự án vốn ngân sách, việc lãng phí là có thật, nhưng kiểm tra lại, là do
năng lực ban đầu từ các chủ đầu tư và các chủ thể tham gia trong hoạt động tư vấn,
trong đó có cả những tư vấn lớn, uy tín; thậm chí đã được cơ quan QLNN thẩm định
rồi. Điều này cần được khống chế bằng pháp luật hiệu quả, khoa học, khả thi,
không thể bằng quyền lực QLNN qua thẩm tra để thay thế được.
5-
Các nội dung khác chưa được quy định:
a/ Năng lực chủ đầu tư: Theo đề cương,
Nghị định sẽ quy định nội dung chi tiết về năng lực chủ đầu tư; rất tiếc, khi
ban hành thì không có. Có lẽ phải chờ đến khi ban hành nghị định mới, thay thế
Nghị định 12/2009/NĐ-CP và Nghị định 83/2009/NĐ-CP. Chính phủ không quy định năng
lực (và chế tài) chủ đầu tư đủ mạnh, đặc biệt đối với những dự án sử dụng vốn
ngân sách, đã làm cho việc QLCL nhiều trường hợp đã thả nổi, chớ không phải vì
QLNN không thực hiện thẩm tra thiết kế.
b/ Vai trò và trách nhiệm tư vấn
QLDA: Đây là một nghề rất hay trong cơ chế thị trường, khi Việt Nam bắt đầu hội
nhập đã xuất hiện và phát triển liên tục. Tuy nhiên, nội dung vai trò và trách
nhiệm của tư vấn QLDA, thay mặt chủ đầu tư, hiện vẫn chưa có cơ chế rõ ràng, đặc
biệt khi công trình xảy ra tai nạn lao động hay có sự cố. Cũng có lẽ lại phải
chờ đến khi ban hành nghị định mới, như đã nêu trên.
c/ Theo Chỉ thị 07/2007/CT-BXD, sau
khi hàng loạt sự cố xảy ra khi thi công các công trình có tầng hầm trong cả nước,
Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã quy định phải có thêm thủ tục thẩm tra biện pháp thi
công tầng hầm (do nhà thầu thi công lập) từ đơn vị tư vấn thẩm tra độc lập. Quy
trình này, Nghị định 15/2013/NĐ-CP không nêu, nghĩa là không cần nữa ? Cần được
khẳng định lại, là rất cần và cũng nhất thiết phải xã hội hóa.
d/ Thiết nghĩ, vấn đề quan trong gây
mất CLCT, thường xuất hiện từ những nội dung:
- Chủ đầu tư không đủ năng lực, không
tận tâm, đặc biệt đối với vốn ngân sách.
- Chủ đầu tư (thường ở các BQL triển
khai nhiều dự án cùng lúc) lập các đơn vị tư vấn là “sân sau”, khép kín.
- Việc kiểm tra (không phải là thẩm
tra) của các đơn vị QLNN là không nghiêm, còn hình thức, không hiệu quả, không đúng
thời điểm và thậm chí đã gây phiền hà; năng lực của các công chức thực hiện kiểm
tra còn yếu, chưa đủ kinh nghiệm thực tế, e dè hay cả nể khi thực hiện công vụ.
Cần có những quy định chi tiết để thay đổi về chất công việc này, kể cả xử lý
nghiêm, hơn là chỉ quản lý thẩm tra thiết kế và kiểm tra hồ sơ khi thi công xong.
- Việc xử phạt chưa đủ nghiêm, đủ răn đe;
chưa rõ ràng về trách nhiệm. Hiện nay, Nghị định 23/2009/NĐ-CP chưa xử phạt tư
vấn (GS, QLDA) khi công trình xây dựng sai phép, khi công trình xảy ra mất an
toàn, gây sự cố, mà chỉ phạt chủ đầu tư, nhà thầu thi công.
e/ Việc Nghị định 15/2013/NĐ-CP đã bỏ
các quy định về cấp giấy chứng nhận sự phù hợp về chất lượng cho các công trình
xây dựng là cần thiết, đúng đắn. Điều mà dư luận nghề nghiệp đã nhìn thấy là
hình thức, lãng phí đã được xóa bỏ, tuy có hơi chậm.
6-
Kiến nghị:
Nghị định 15/2013/NĐ-CP vừa ban
hành, có những quy định chưa theo xu hướng xã hội hóa, như đã nêu. Để các đơn vị
QLNN góp phần trực tiếp hơn vào việc giúp chủ đầu tư về QLCL công trình, xin kiến
nghị:
a/ Các thủ tục như hiện nay đang có
về công tác thẩm tra thiết kế; không nên thay đổi.
b/ Xử phạt theo hướng tăng nặng hơn
trách nhiệm của các đơn vị tư vấn, kể cả tư vấn thẩm tra, tư vấn định giá, đặc
biệt khi hiện nay Bộ Xây dựng đang lấy ý kiến góp ý cho dự thảo thay thế Nghị định
23/2009/NĐ-CP.
c/ Khẩn trương ban hành nghị định
thay thế Nghị định 12/2009/NĐ-CP và Nghị định 83/2009/NĐ-CP, đã trễ so với kế
hoạch đề ra khá nhiều.
d/ Ban hành chi tiết chế độ kiểm tra
thường xuyên của các đơn vị QLNN, kể cả cấp Bộ, thực hiện đối với công trình
xây dựng theo phân cấp. Chế độ kiểm tra phải đảm bảo hiệu quả, ngăn ngừa những
thỏa hiệp, tiêu cực từ đầu, với các đợt như đã nêu, thay vì “làm thay” công tác
thẩm tra và kiểm tra thủ tục trước khi công trình đưa vào sử dụng, như Nghị định
15/2013/NĐ-CP đã quy định. Việc kiểm tra hồ sơ khi đã hoàn thành công trình,
lúc đó mới phát hiện xảy ra sai sót, vi phạm… chắc chắn sẽ khó khắc phục, có khắc
phục cũng rất tốn kém và dễ xảy ra hiện tượng phổ biến là “hợp thức hóa” các
sai phạm.
e/ Về cấp giấp phép xây dựng: Tiếp tục
kiến nghị nên buộc chủ đầu tư các công trình cấp III trở lên, sau khi có GPXD,
phải có thiết kế được thẩm tra – thay vì phải thiết kế, thẩm tra trước rồi mới
xin phép xây dựng - để tránh thêm một thủ tục dễ phải thực hiện lại gây tốn kém
không cần thiết. Việc kiểm tra thường xuyên công trình của cơ quan QLNN sẽ xử
phạt nghiêm khi phát hiện thiếu thủ tục này.
No comments:
Post a Comment